Đến con đường trước mặt cư xá, hắn và nàng hôn nhau.
Đôi môi lành lạnh của nàng xoắn lấy môi hắn. Khi hắn định rời môi ra thì nàng lắc đầu nguầy nguậy. Hắn ôm nàng thầm thì những lời trấn an nàng, rồi chia tay. Hắn nhìn nàng băng qua đường, đi vào phòng khách còn sáng đèn.
Hắn vào quán giải khát gần đó, uống hai cốc bia. Đôi tay hắn khéo léo xé giấy lau miệng thành những mảnh nhỏ vuông sắc sảo một cách nghệ thuật. Nửa giờ trôi qua, hắn vào phòng điện thoại, quay số điện thoại cư xá, nhờ cô gái trực máy gọi dùm đến phòng Dorothy.
Chuông reo đến lần thứ hai, Dorothy mới nhấc ống nghe.
- Ai đầu dây đó?
- Anh đây, Dorrie – Đầu dây phía nàng bỗng im bặt – Em đã uống thuốc chưa? – Vẫn lặng yên.
- Rồi – Gịong nàng vang lên cụt ngủn.
- Lúc nào?
- Cách đây vài phút.
Hắn hít hơi thật mạnh vào lồng ngực.
- Bé yêu của anh, cô gái trực điện thoại có khi nào nghe lén không?
- Không. Một cô mới bị sa thải vì…
- Này em, anh không nói cho em biết trước làm gì… nhưng thuốc sẽ công phạt đấy – Nàng không nói gì cả. Hắn nói tiếp – Em sẽ có cảm giác cháy bỏng nơi cuống họng và dạ dày sẽ nhói đau. Dù có chuyện gì xảy ra, em chớ hốt hoảng, sợ hãi. Điều đó có nghĩa là thuốc công hiệu. Em chớ gọi ai – Hắn ngừng xem nàng có phản ứng gì không, nhưng nàng không nói gì – Anh xin lỗi đã không nói cho em biết trước nhưng nói vậy chứ không đau đớn gì mấy đâu. Khi em nhận ra thì mọi sự đã xong rồi! – Đầu dây nói kia vẫn im tiếng – Em không giận anh chứ, Dorrie?
- Không.
- Em sẽ thấy, mọi việc rất tốt đẹp.
- Em xin lỗi vì đã hơi ngoan cố.
- Bé của anh ngoan lắm. Em có lỗi chi đâu.
- Hẹn sáng mai gặp anh.
- Ừ.
Im lặng vài giây, giọng nói nhỏ nhẹ của nàng lại vang trong máy.
- Chào anh. Chúc anh ngủ ngon.
- Chào em.
Sáng thứ sáu, hắn phấn khởi đến lớp học, cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn đi. Hắn có cảm tưởng như con người hắn trở nên lớn hơn, trở nên phi thường. Những tia nắng chảy tuôn vào phòng học, nhảy múa trên những dãy ghế bằng kim loại, rồi điểm tô lên vách tường, lên trần nhà những nụ hoa nắng lung linh. Ngồi ở dãy sau, hắn duỗi thẳng chân một cách thoải mái, tay khoanh trước ngực, nhìn các sinh viên khác đang lũ lượt kéo vào lớp học. Vẻ rạng rỡ của một buổi mai sớm đã thổi vào họ một luồng sinh khí mới hừng hực sức sống. Ngày mai sẽ là ngày khai mạc trận đấu bóng rổ đầu tiên của đội bóng nhà trường; buổi tối có hội vũ mùa xuân, sẽ có dịp la ó, ba hoa và những trận cười.
Ba cô gái đang đứng chụm lại với nhau thì thầm, nhỏ to chuyện gì trông rất sôi nổi. Hắn tự hỏi phải chăng đó là ba cô sinh viên nội trú và họ đang bàn chuyện về Dorothy?
“Mình nghĩ chưa ai phát hiện ra con bé đâu. Tại sao không có người nào đến phòng con bé nhỉ? Có thể họ tưởng con bé muốn ngủ dậy trễ. Mình hy vọng trong vòng ba bốn tiếng nữa họ vẫn chưa tìm thấy con bé”. Hắn thót giật nẩy người khi tiếng rù rì của ba cô gái bỗng vỡ tan ra thành những tràng cười ngặt ngẽo.
“Không, không thể nào họ phát hiện ra con bé trước một giờ hoặc vào khoảng thời gian ấy. Dorothy không xuống ăn sáng, cũng không xuống ăn trưa, thế là họ đến gõ của phòng và không nghe tiếng con bé trả lời. Họ sẽ đi tìm bà giám đốc cư xá hay ai đó để mượn chìa khóa. Điều này cũng không thể xảy ra. Có biết bao nhiêu cô đã ngủ quên luôn bữa điểm tâm và cũng có một số cô đi ra ngoài ăn mỗi khi bốc đồng.
Con bé đâu có bạn thân nên chẳng ai chú ý sự vắng mặt của nó. Không, nếu mình vẫn còn may mắn thì chỉ đến khi nào Ellen gọi điện thoại, họ mới vỡ lẽ ra thôi”.
Đêm hôm trước, sau khi từ giã Dorothy qua điện thoại, hắn quay lại cư xá và bỏ thư có ghi địa chỉ của Ellen Kingship – lá thư tuyệt mạng của Dorothy – vào thùng thư gần đấy. Chuyến thư sớm nhất sẽ đi vào lúc sáu giờ mỗi buổi sáng. Caldwell chỉ cách có một trăm dặm; như vậy buổi trưa thư sẽ đến tay Ellen. Nếu sáng nay họ phát hiện ra con bé thì chắc chắn Ellen sẽ được ông bố báo tin và sẽ tức tốc rời Caldwell đi Blue River. Việc này có nghĩa là họ tức khắc tiến hành ngay cuộc điều tra, lý do lúc đó Ellen chưa nhận được lá thư kia. Đây là sự nguy hiểm duy nhất nhưng cũng chỉ là sự nguy hiểm nhỏ nhặt và bất ngờ thôi.